Trang chủ » Tranh luận » TPP: “Cuộc chơi” chủ động của Việt Nam trong hội nhập

TPP: “Cuộc chơi” chủ động của Việt Nam trong hội nhập

Tác giả:

LTS: Gia nhập Hiệp định xuyên Thái Bình Dương (TPP) là vấn đề mới mẻ, lần đầu tiên được đề cập tại Việt Nam nên hiện có nhiều cái nhìn với những quan điểm khác nhau. Tuy nhiên, Việt Nam đã bước vào sân chơi chung toàn cầu, không có con đường nào khác là tiếp tục hội nhập sâu rộng để tăng tốc phát triển. Sức ép hội nhập buộc Việt Nam phải thay đổi và vươn lên.

Theo kế hoạch, mùa Thu sang năm Việt Nam sẽ phải hoàn tất đàm phán với Mỹ – đối tác quan trọng nhất khi tham gia Hiệp định TPP. Vậy, đến nay Việt Nam đã chuẩn bị những gì về chính sách, tâm thế của Việt Nam ra sao? Sức chịu đựng của nền kinh tế như thế nào?

Buổi giao lưu trực tuyến với các chuyên gia kinh tế, luật sư về TPP chính là góp phần để các nhà quản lý, chuyên gia, các doanh nghiệp, hiệp hội… hiểu rõ hơn về hiệp định này cũng như những gì Việt Nam được hưởng cũng như đối mặt khi trở thành thành viên chính thức.

Diễn đàn Kinh tế Việt Nam trân trọng giới thiệu toàn văn nội dung giao lưu trực tuyến về TPP.

TPP: Hiệp định xuyên thế kỷ 21!

Độc giả Huỳnh Tâm (31 tuổi, TP.HCM): Hiệp định TPP là gì? Sự khác biệt của hiệp định này so với các hiệp định mà Việt Nam đã tham gia trước đây như WTO, BTA, AFTA?

Luật sư Trần Hữu Huỳnh: Như chúng ta đã biết, Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết đã tuyên bố chính thức việc đàm phán hiệp định này. Năm 2005, đã có một hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương với 4 nước tham gia khởi xướng: Brunei, Chile, New Zealand, Singapore.

Từ năm 2010, có thêm 5 nước tham gia đàm phán gồm: Hoa Kỳ, Australia, Peru, Việt Nam và gần đây là Malaysia. Người ta đánh giá TPP là một hiệp định của thế kỷ 21, không chỉ vì nó là Hiệp định lớn mà còn ở tầm vóc và ảnh hưởng của nó. Về phạm vi, so với các hiệp định BTA, AFTA, và trong WTO, TPP mở rộng hơn, cả về thương mại hàng hóa, thương mại dịch vụ, đầu tư và sở hữu trí tuệ. Ngoài ra còn là các vấn đề phi thương mại như mua sắm chính phủ, môi trường, lao động, công đoàn, hỗ trợ cho các DN vừa và nhỏ…

Với tầm vóc như vậy, các cam kết này sâu rộng hơn, toàn diện hơn, thì bấy giờ, ảnh hưởng sẽ rất lớn. Đó là điểm khác biệt cơ bản. Nhìn ở góc độ Việt Nam, ta là nước đang phát triển, các thành viên còn lại là nước phát triển. Tính chất TPP mở ra, cho các nước có mức độ phát triển khác nhau nhưng cố gắng có một mẫu số chung để cùng phát triển.

Mục tiêu là thế, nhưng không tạo ra các cam kết khác biệt. các cam kết thực hiện sẽ phải bình đẳng. Các nước đang phát triển mà tham gia TPP sẽ phải cố gắng để rút ngắn thời gian thực hiện cam kết đó.

Bà Phạm Chi Lan: Tuy mới được khởi động nhưng TPP đã tạo được sự quan tâm của nhiều nước. Ngoài 8 nước ông Huỳnh vừa kể tên, có thêm Malaysia mới tham gia. Có 4 nước bày tỏ quan tâm và có thể tham gia trong thời gian tới là Nhật Bản, Thái Lan, Philippines và Indonesia.

TPP là một cơ chế mở, trong tương lai nhưng nước quan tâm có thể tham gia đàm phán gia nhập. Đối với những nước đầu tiên tham gia như Việt Nam, đây là thời điểm quan trọng và cần tạo ra khuôn khổ tốt nhất để làm nền cho việc tham gia của các nước khác sau này.

Vì vậy TPP đặt ra một lộ trình khá cấp tốc, với mục tiêu cuối 2011, đầu 2012 là hoàn thành hiệp định TPP của 9 nước đang đàm phán hiện nay. Rõ ràng, những nước như Việt Nam muốn tham gia thì phải thật khẩn trương và có những quyết định mang tính chất quyết đoán, để mọi quyết định phù hợp với lợi ích của các cộng đồng trong nước thì phải thay đổi cách tham vấn để lấy được ý kiến của các cộng đồng trong nước.

Đồng thời phải đẩy nhanh việc nghiên cứu đánh giá, dự báo tác động của các lĩnh vực chính mà Việt Nam sẽ đàm phán với các thành viên TPP.

Độc giả Bình Nguyên (nhà đầu tư BĐS, Bắc Ninh): Là chuyên gia nổi tiếng về hội nhập, bà Phạm Chi Lan đánh giá như thế nào về cơ hội mà Việt Nam có được khi gia nhập TPP? Điều này ảnh hưởng như thế nào đến quan hệ thương mại, xuất khẩu hàng hoá giữa Việt Nam và các nước châu Á – Thái Bình Dương?

Bà Phạm Chi Lan: Tham gia TPP thì Việt Nam có cơ hội trước hết ở việc thúc đẩy cải cách thể chế, cải thiện môi trường kinh doanh tạo thuận lợi cho phát triển kinh tế xã hội. Các quan hệ thương mại, đầu tư và hợp tác giáo dục, khoa học công nghệ giữa Việt Nam với các thành viên TPP có thể cải thiện nhanh chóng, vừa mở rộng, vừa đi vào chiều sâu, tạo thêm nguồn lực cho Việt Nam phát triển trong giai đoạn mới.

Trong các thành viên TPP, có những quốc gia quan trọng, có khả năng bổ sung cao cho nền kinh tế VN như Hoa Kỳ, Australia, New Zealand, Singapore… Đây cũng là những đối tác đầu tư rất tiềm năng của VN. TPP có thể giúp thúc đẩy đầu tư của các nước này vào Việt Nam, đặc biệt trong một số lĩnh vực Việt Nam mong muốn như phát triển các ngành công nghệ cao, nâng cao trình độ của các lĩnh vực công nghiệp, dịch vụ, nông nghiệp, tạo khả năng cho Việt Nam tham gia tốt hơn vào chuỗi giá trị trong khu vực và trên toàn cầu.

Các nước châu Á – Thái Bình Dương nói chung là thị trường quan trọng của Việt Nam. Hai trong ba nước nhập khẩu lớn nhất của VN là Hoa Kỳ và Nhật Bản. TPP sẽ thúc đẩy xuất khẩu của VN sang các nước này cũng như các thành viên khác của TPP nhờ những cam kết mở cửa thị trường mạnh hơn, cao hơn so với những cam kết hiện có trong khu vực.

Độc giả ở địa chỉ quangt…@gmail.com: Nếu Việt Nam mở cửa toàn diện thị trường dịch vụ, hàng hóa, đầu tư… thì có thể khai thác và hấp thụ được đến đâu? Sức chịu đựng của nền kinh tế Việt Nam nếu gia nhập TPP ra sao? Thời điểm nào là thích hợp nhất để Việt Nam tham gia TPP?

Luật sư Trần Hữu Huỳnh: Việc mở cửa toàn diện là một “kịch bản” khó có thể xảy ra ngay cả đối với một “hiệp định thế kỷ” như TPP. Trên thực tế, một “kịch bản” hiện thực là cắt giảm hầu hết các dòng thuế, mở cửa ở mức độ sâu về các mảng dịch vụ, thuận lợi hóa thủ tục đầu tư.

Khả năng khai thác và hấp thụ xét từ góc độ tích cực, cũng như khả năng chịu đựng của nền kinh tế xét từ góc độ tiêu cực phụ thuộc vào nhiều yếu tố, trong đó, đặc biệt nhấn mạnh năng lực cạnh tranh của các ngành nội địa. Tuy nhiên, để nâng cao năng lực cạnh tranh của các ngành nội địa, vai trò của Nhà nước là rất quan trọng.

Luật sư Trần Hữu Huỳnh (ảnh  Lê Anh Dũng)

Nâng cao hiệu quả cạnh tranh của Nhà nước, của doanh nghiệp, của sản phẩm, phụ thuộc không chỉ việc cải cách mạnh mẽ sâu rộng ở trong nước mà còn phụ thuộc nhiều vào việc tham gia các hiệp định thương mại quốc tế.

TPP mới đang là giai đoạn đàm phán, chưa phải là một khuôn khổ pháp lý như WTO. Vì vậy, việc kết thúc đàm phán và đi đến ký kết TPP phụ thuộc vào kết quả đàm phán giữa các bên. Hiện nay, khó có thể nói quá trình mất bao lâu. Dù nhiều nhà lãnh đạo mong muốn nó sớm kết thúc vào trong khoảng 2012.

Cơ hội đàm phán bình đẳng với các đối tác

Độc giả Thu Hằng (42 tuổi, Giảng viên Đại học tại Đà Nẵng): Nếu tham gia TPP, Việt Nam sẽ phải cải cách một số vấn đề như vấn đề pháp luật lao động cho phù hợp các tiêu chuẩn của các nước thành viên… Hiện Việt Nam  đã chuẩn bị được những bước đi gì cho việc tham gia này?

Luật sư Trần Hữu Huỳnh: Thứ nhất là hiện nay, TPP mới đang trong giai đoạn đàm phán giữa các thành viên. TPP mới là hiệp định đang được xây dựng. Vì thế, chưa có cái gọi là “tiêu chuẩn của các nước thành viên”.

Về pháp luật lao động, hiện chưa chắc chắn Việt Nam phải cải cách gì liên quan đến pháp luật lao động cũng như những mảng pháp luật nội địa khác, do đàm phán TPP chưa đi vào các vấn đề cam kết cụ thể.

Hiện nay, vấn đề lao động được đặt ra trong đàm phán TPP bao gồm: quyền thương lượng của người lao động đối với giới chủ sử dụng lao động, về lương, ngày làm việc, điều kiện lao động, điều kiện về bảo hiểm, quyền trong việc ký kết các hợp đồng lao động…

Nhưng với vai trò là thành viên, một bên đàm phán bình đẳng như tất cả các thành viên khác, Việt Nam hoàn toàn có quyền đề xuất, can thiệp vào việc định hình các cam kết này. Tôi xin nhấn mạnh, không phải là chúng ta bị động hoàn toàn trong đàm phán, không buộc phải chấp nhận các cam kết mà các thành viên khác đề xuất.

Tuy nhiên, việc cải thiện pháp luật lao động, tiến dần tới các tiêu chuẩn lao động tiên tiến của quốc tế nên là việc cần phải làm và thường xuyên làm.

Trên thực tế, nhiều doanh nghiệp của chúng ta đã đáp ứng tiêu chuẩn lao động cao, khi gia công hay hợp tác sản xuất với các đối tác nước ngoài. Ví dụ như tiêu chuẩn sạch, xanh, trách nhiệm xã hội. Vì vậy, việc tiếp nhận các tiêu chuẩn mới không hẳn là một thách thức quá lớn đối với chúng ta.

Chuyên gia kinh tế Phạm Chi Lan (ảnh Lê Anh Dũng)

Bà Phạm Chi Lan: Đàm phán TPP khác với đàm phán WTO. Đối với các nước tham gia WTO, quá trình đàm phán đều là đàm phán “một chiều”, theo cách nước muốn gia nhập phải đưa ra những cam kết của mình mà không thể thương lượng, đưa thêm nội dung gì vào hiệp định WTO đã có. Chỉ sau khi trở thành thành viên WTO, nước đó mới có quyền tham gia các đàm phán mới của WTO hoặc đề xuất những vấn đề mới để WTO xem xét đưa ra đàm phán chung.

Tuy nhiên, chấp nhận và chấp hành các luật chơi của WTO cũng hoàn toàn không phải là một điều dễ dàng đối với các nước muốn gia nhập. Trung Quốc đã mất 15 năm và Việt Nam mất 12 năm đàm phán mới được kết nạp vào WTO.

Tham gia TPP, Việt Nam có cơ hội là một đối tác đàm phán bình đẳng với 8 thành viên của TPP hiện nay để cùng nhau đưa ra những cam kết chung trong TPP.

Rõ ràng Việt Nam có điều kiện tốt hơn để cân nhắc các lợi ích và thách thức của mình cũng như của các thành viên liên quan để có thể chủ động đàm phán nhằm đi tới những thỏa thuận cùng có lợi.

Tất nhiên, mọi cuộc đàm phán đều đòi hỏi các bên thông hiểu và sẵn sàng thỏa hiệp với nhau. Điều quan trọng nhất là chúng ta bảo vệ và giành được những lợi ích cốt lõi của mình. Những lợi ích này phải được đặt trong yêu cầu phát triển với chuẩn mực ngày càng cao hơn của đất nước.

Độc giả Nguyễn Hạnh Mai (Cao Bằng): Khi gia nhập WTO năm 2007, Việt Nam phải tuân thủ những quy định có sẵn, bất kể những quy định đó như thế nào. Tuy nhiên, khi gia nhập TPP vào thời điểm này, Việt Nam có thể tham gia tiến trình xây dựng các quy định của TPP. Ông có gợi ý gì nên làm cho Việt Nam về những quy định TPP để đảm bảo lợi ích của chúng tôi?

Luật sư Eric C. Emerson: Câu hỏi này nêu bật một trong những lý do thuyết phục nhất đối với Việt Nam khi tham gia tiến trình thương thuyết TPP lúc này. Đó là khả năng tham gia vào việc xây dựng thỏa thuận thay vì đồng ý với các điều khoản sau đó.

Việc trả lời cho câu hỏi này tùy thuộc một phần vào những mục tiêu cụ thể mà Việt Nam tìm kiếm trong quá trình thương thuyết. Một ví dụ về thay đổi quy định đã được đề cập ở trên liên quan tới nguồn gốc sản phẩm dệt may. Thay đổi hay nới lỏng quy tắc “yarn forward” có thể tăng đáng kể sự tiếp cận của Việt Nam vào thị trường Mỹ.

Một ví dụ khác được đề cập dưới đây, cụ thể là, tìm kiếm một quy định để đẩy nhanh việc Việt Nam có được vị thế là một nền kinh tế thị trường trong những vụ việc liên quan tới thuế chống phá giá. Do đây là vấn đề cần phòng thủ, Việt Nam sẽ muốn tập trung vào những vấn đề này, nơi mà vị thế duy nhất của Việt Nam không giống bất cứ nước nào khác, để những quy định của thỏa thuận sẽ không tác động bất lợi cho Việt Nam.

Ví dụ, kinh tế Việt Nam vẫn tiếp tục nằm dưới sự thống lĩnh của các công ty thuộc sở hữu nhà nước ở một mức lớn hơn bất kỳ một quốc gia TPP nào khác. Đảm bảo rằng những công ty đó không bị đối xử phân biệt là một mục tiêu quan trọng.

3 thách thức với Việt Nam

Độc giả Nguyễn Văn Chung (50 tuổi, Bắc Giang): Là một luật sư có nhiều kinh nghiệm trong đàm phán các vấn đề tranh chấp liên quan đến hội nhập và am hiểu về hội nhập, xin hỏi ông Eric rằng Việt Nam sẽ có lợi và phải đối mặt với những thách thức gì khi gia nhập TPP?

Luật sư Eric C. Emerson: Nhìn chung, lợi ích lớn nhất mà Việt Nam có sẽ là tiếp cận nhiều hơn với các thị trường xuất khẩu do thuế thấp hơn, có năng lực thu hút đầu tư nước ngoài hơn. Tuy nhiên, do việc đàm phán vẫn ở giai đoạn đầu nên lợi ích từ việc gia nhập TPP sẽ phụ thuộc phần lớn vào nhu cầu của Việt Nam.

Ví dụ, ở lĩnh vực dệt may, Mỹ có truyền thống áp dụng quy tắc “yarn forward” (đối tác thương mại phải sử dụng sợi do họ tự sản xuất hoặc được sản xuất tại Mỹ).

Theo quy định này, nguồn gốc sản phẩm dệt may được tính là nơi mà sợi được dệt, có nghĩa là sản phẩm được sản xuất tại Việt Nam, từ vải dệt của Trung Quốc sẽ được coi là hàng Trung Quốc dù nó được cắt may tại Việt Nam.

Như một phần trong thương thuyết, Việt Nam có thể đòi hỏi Mỹ chấp nhận một quy định cho phép những sản phẩm được cắt may ở Việt Nam ghi xuất xứ Việt Nam, bất kể nguồn gốc nguyên liệu vải là ở đâu. Các nhà sản xuất dệt may của Mỹ sẽ cực lực phản đối sự thay đổi này nhưng đó là một trong những đòi hỏi chủ chốt của Việt Nam, Mỹ có thể nới lỏng một số quy tắc bình thường, đặc biệt là khi nó kèm với những điều khoản bảo vệ hợp lý nhằm ngăn chặn hàng nhập khẩu tăng lên.

Việt Nam sẽ đối mặt với vô số thách thức khi thực hiện TPP. Theo quan điểm của tôi, có 3 thách thức dưới đây là lớn nhất:

Thứ nhất là lĩnh vực pháp lý. Hệ thống các quy định của Việt Nam nhìn chung kém phát triển hơn những bên khác của TPP, và việc đưa hệ thống quy định lên một mức tương xứng với các bên khác trong TPP là khá khó khăn.

Trong khi có một số ngoại trừ có thể được áp dụng để phản ánh việc Việt Nam là một quốc gia đang phát triển, Việt Nam cũng không nên mong chờ rằng mình có thể vượt qua hoàn toàn những đòi hỏi đó.

Thứ hai, các ngành công nghiệp địa phương của Việt Nam cần tăng sự cạnh tranh nhập khẩu do mức thuế giảm. Có khả năng cam kết giảm thuế của Việt Nam sẽ thấp hơn một chút so với những nước khác, do vẫn là nước đang phát triển, song Việt Nam vẫn phải đối mặt với sự cạnh tranh nhập khẩu.

Thứ ba, kinh tế Việt Nam được bảo hộ khỏi đầu tư nước ngoài nhiều hơn và gắn kết với chính phủ hơn bất cứ quốc gia TPP nào nên Việt Nam sẽ phải đối mặt với đòi hỏi từ các nước TPP về việc mở rộng cửa hơn nữa cho đầu tư nước ngoài ở những lĩnh vực như viễn thông và dịch vụ tài chính. Thỏa mãn những yêu cầu này sẽ là thách thức về mặt kinh doanh và chính sách công.

Độc giả [email protected]: Thưa ông, liệu có những lợi ích nào từ TPP đối với Việt Nam, có thể bị các yếu tố khác làm vô hiệu hay không?

Luật sư Eric C. Emerson: Luôn có những rủi ro mà theo đó, một vài lợi ích mong muốn sẽ không được thực hiện, hoặc là các rào cản AD/CVD hoặc là những hàng rào phi thuế quan. Chẳng hạn với nước Mỹ, chúng tôi từng có những ca thương mại tồi tệ như nhập khẩu gỗ thân mềm từ Canada.

Trong khi giao dịch theo khuôn khổ TPP có thể ko tự do hoàn toàn thì các số liệu thống kê lại cho thấy các hiệp định thương mại thường làm tăng khối lượng giao dịch thương mại.

Trong khi một nước luôn có thể viện dẫn một điều khoản bảo vệ, hoặc có thể cố gắng dựng lên một rào cản phi thuế quan, TPP sẽ khiến việc này trở nên khó khăn hơn và gần như chắc chắn sẽ đưa ra cơ chế giải quyết tranh chấp để giải tỏa những mối lo ngại này.

Để giải quyết vấn đề này, Việt Nam cần đảm bảo rằng, các quy định của TPP trong lĩnh vực này phải ở mức chặt chẽ nhất. Tuy nhiên cũng cần phải hiểu rằng, những quy tắc đó cũng có thể được dùng để chống lại Việt Nam nếu Việt Nam cố gắng bảo vệ bất cứ ngành công nghiệp nội địa nào trước sự cạnh tranh từ bên ngoài.

Không vì khó khăn mà dừng chuyện hội nhập

Độc giả Phong Vũ (Quảng Bình): Việt Nam đã tham gia rất nhiều hiệp định thương mại đa phương. Trong đó nổi bật là AFTA và WTO. Ai cũng khẳng định những lợi ích dài hạn và xu thế không thể cưỡng lại của hội nhập kinh tế. Tuy nhiên, với hai hiệp định đa phương trên, đến thời điểm này, dường như chứng ta chưa tận dụng được hết lợi ích để khai thác thị trường trong khi các nước khác lại có lợi thế để thâm nhập Việt Nam mạnh hơn. Cụ thể, với AFTA, Việt Nam đang nhập khẩu tăng nhanh hơn so với xuất khẩu ra ASEAN, với WTO trong khi xuất khẩu chỉ tăng ở mức vừa phải thì chúng ta đang phải lên tục giảm thuế theo cam kết dẫn đến nhập khẩu tăng và nhập siêu nhiều; các nhà phân phối đang vào Việt Nam nhiều hơn…? Vậy chúng ta có đặt vấn đề tham gia thêm các hiệp định đa phương khi chưa có đủ năng lực.

Trong khi đó đàm phán đa phương, Việt Nam lại ký kết nhiều hiệp định song phương và có những lợi ích cụ thể, trực tiếp. Có mối quan hệ nào giữa song phương và đa phương và có sự lựa chọn nào giữa hai hiệp định này?

Bà Phạm Chi Lan: Thực tế ở nước ta trong 25 năm đổi mới vừa qua chứng minh rất rõ lợi ích cơ bản và to lớn của hội nhập quốc tế đối với sự phát triển kinh tế – xã hội của nước nhà. Không có hội nhập thì đổi mới không thể thành công và không có đổi mới thì chúng ta cũng không thể hội nhập quốc tế được.

Riêng đóng góp của xuất khẩu, thu hút FDI và các nguồn lực từ bên ngoài trong tăng trưởng và phát triển các ngành, các vùng của chúng ta trong thời gian qua đã chứng minh điều đó.

Tất nhiên trong quá trình hội nhập quốc tế, chúng ta cũng còn những khiếm khuyết phải rút kinh nghiệm. Đặc biệt, trong lĩnh vực xuất nhập khẩu cũng như thu hút FDI, chúng ta chưa thực sự tận dụng được mọi cơ hội cũng như khắc phục những thách thức từ tiến trình này.

Nhìn riêng, quá trình thực hiện từng cam kết hội nhập như với ASEAN, WTO, các cơ chế ASEAN+… đều còn nhiều điều phải cải thiện để giành lợi ích xứng đáng hơn cho đất nước và khắc phục những thách thức còn đè nặng lên nền kinh tế và các doanh nghiệp.

Tuy nhiên, chúng ta cũng không thể vì thế mà dừng lại trong khi xu hướng chung trên thế giới và khu vực đều tiếp tục thúc đẩy những cuộc đàm phán để đạt được những cam kết mới với các đối tác kinh tế quan trọng.

Trong hợp tác kinh tế quốc tế, các quan hệ đa phương và song phương đều quan trọng. Một nền kinh tế với quy mô như nước ta không thể dàn trải để thiết lập quan hệ như nhau với mọi đối tác.

Luật sư Eric C. Ẻmerson đang giao lưu tại đầu cầu ở Mỹ (ảnh Eric)

Do vậy, trên nền tảng các quan hệ đa phương quan trọng đã được thiết lập, trong vài năm gần đây, chúng ta đã tập trung nỗ lực một mặt thực hiện các cam kết đa phương, một mặt khởi động và thúc đẩy các quan hệ song phương với các đối tác cần thiết, đặc biệt với một số đối tác có tầm quan trọng chiến lược đối với nước nhà.

Thực tế cho thấy, mặc dù chúng ta có quan hệ thương mại với hơn 200 nước và vùng lãnh thổ, đã thu hút đầu tư từ hơn 70 quốc gia, song những bạn hàng lớn nhất về thương mại và đầu tư đều tập trung vào một số ít quốc gia và vùng lãnh thổ.

Trên cơ sở tiềm năng phát triển còn to lớn trong quan hệ với một số đối tác đó mà chúng ta và họ đã và đang cùng nhau thúc đẩy quan hệ kinh tế song phương. Các quan hệ kinh tế song phương giúp cho Việt Nam phát triển cũng sẽ giúp cho chúng ta thúc đẩy quan hệ với các quốc gia khác và thực hiện tốt hơn các cam kết hội nhập quốc tế khác.

Độc giả Lê Hành Khán: Theo ông, với Việt Nam, TPP sẽ mang lại những lợi ích gì lớn hơn là mt FTA song phương Việt – Mỹ?

Luật sư Eric C. Emerson: Theo tôi, nếu Việt Nam muốn mở rộng hơn mối quan hệ thương mại với Mỹ, thì một lộ trình đa phương sẽ tốt hơn là những thỏa thuận song phương.

Chắc chắn là thỏa thuận đa phương sẽ khó đàm phán hơn. Tuy nhiên, ở giai đoạn này, có vẻ như Việt Nam đang trở thành mối quan tâm lớn nhất ở Mỹ, đặc biệt là trong vấn đề quyền lợi người lao động hay xuất khẩu dệt may. Nếu hai bên đàm phán về một thỏa thuận song phương, tôi tin là những người muốn mở rộng quan hệ thương mại với Việt Nam sẽ khó khăn hơn trong việc vượt qua những phản đối chính trị.

Tuy nhiên, nếu Mỹ có thể đàm phán được thỏa thuận TPP đa phương, điều vốn đã được nhiều khu vực ở Mỹ coi như một thỏa thuận có lợi, như tạo ra sự tiếp cận thị trường rộng hơn, bảo vệ TPP tốt hơn và mở ra các cơ hội lớn hơn về gắn kết quy định giữa các quốc gia thành viên, thì sự ủng hộ sẽ vượt xa những phản đối.

Độc giả Nguyễn Hùng (27 tuổi, Hải Phòng): Là một luật sư có kinh nghiệm về chính sách thương mại quốc tế và chiến lược từ nhiều năm, xin ông Eric cho biết lỗi chung nào mà những quốc gia đang phát triển như Việt Nam thường mắc phải khi gia nhập các tổ chức thương mại quốc tế? Ông có thể cho chúng tôi vài lời khuyên để tránh những sai phạm như vậy không?.

Luật sư Eric C. Emerson: Khi ngồi vào bàn đàm phán, các đại diện của Việt Nam sẽ thương thuyết với những đại diện được sự ủng hộ to lớn từ cộng đồng kinh doanh trong nước. Ví dụ, tại Mỹ, liên hiệp các ngành kinh doanh, các liên minh đặc biệt và các công ty tư nhân thường cung cấp đại diện thương mại của Mỹ tài liệu, dự thảo và ý tưởng cho tiến trình đàm phán.

Tôi cho rằng cộng đồng kinh doanh ở nhiều nước đang phát triển, gồm cả Việt Nam, không tích cực tham gia tiến trình đàm phán như cộng đồng kinh doanh ở những nước phát triển. Chắc chắn là Việt Nam có những nhà thương thuyết tài giỏi nhưng họ vẫn có thể hoàn thành công việc tốt hơn nếu được hỗ trợ đầy đủ từ cộng đồng kinh doanh trong nước.

Việt Nam cần chuẩn bị gì?

Độc giả Đỗ Nam Huy (Bình Dương): Có vẻ như các ý kiến chuyên gia về lợi ích gia nhập TPP còn quá chung chung, Việt Nam đã liệt kê ra những ngành hàng gì và lĩnh vực gì mà doanh nghiệp Việt Nam sẽ được hưởng lợi từ TPP? Theo ông, doanh nghiệp Việt Nam cần chuẩn bị những gì để không bị động khi gia nhập TPP?

Luật sư Trần Hữu Huỳnh: Hiện nay, các nhà đàm phán đang có những phân tích, liệt kê, ngành hàng, lĩnh vực mà doanh nghiệp Việt Nam sẽ được hưởng lợi từ TPP.

Riêng ý kiến cá nhân tôi, cần đặt vấn đề lợi ích liên quan tới TPP có thể phân hóa trong nội bộ từng ngành. Không phải khi nào lợi ích của ngành cũng là thống nhất, ví dụ, ngành xuất khẩu nông sản có thể được lợi nhưng việc nhập khẩu những nông sản từ các nước thành viên TPP sẽ là thách thức đối với các nhà sản xuất và phân phối nông sản của Việt Nam.

Những mặt hàng xuất khẩu có cơ hội để được tiếp cận thị trường nhập khẩu với những ưu đãi hơn, ví dụ thuế, các biện pháp thuận lợi hóa thương mại nhưng đối với các dịch vụ ở trong nước, cạnh tranh sẽ xảy ra gay gắt hơn và phải phụ thuộc nhiều hơn vào thị trường thế giới.

Ngay cả những mặt hàng xuất khẩu như trên đã nói, có thể thuận lợi hơn, nhưng cũng gặp những thách thức, ví dụ như các tiêu chuẩn về hàng rào kỹ thuật (TBT), về vệ sinh dịch tễ (SPS), tiêu chuẩn xuất xứ, các biện pháp phòng vệ thương mại… Ngược lại, các ngành sản xuất và dịch vụ trong nước tuy bị cạnh tranh gay gắt hơn nhưng cũng là cơ hội để họ tái cấu trúc lại doanh nghiệp.

Nói tóm lại, trong cơ hội có thách thức và trong thách thức có cơ hội. Vấn đề là trong mỗi ngành hàng, mặt hàng, việc xác định ngành hàng nào được lợi và bị thiệt hại phải dựa trên ý kiến của chính ngành hàng đó. Do đó, các diễn đàn để các hiệp hội ngành hàng bày tỏ tính toán thiệt hơn trong ngành mình, trong mối quan hệ chung với các ngành khác và với lợi ích của quốc gia sẽ là nguồn thông tin hữu ích đối với các nhà đàm phán của chúng ta.

Độc giả Hà Văn Tam (Lạng  Sơn): Gia nhập TPP, Việt Nam sẽ phải sửa đổi một số quy định, luật lao động là một ví dụ, để đáp ứng những tiêu chuẩn của các quốc gia thành viên khác. Việt Nam nên chuẩn bị cho vấn đề này như thế nào?

Luật sư Eric C. Emerson: Nếu chưa thực thi, Việt Nam nên tập hợp nhóm các chuyên gia trong những lĩnh vực chủ chốt, vốn đòi hỏi phải sửa đổi quy định. Những nhân vật này có thể là quan chức chính phủ, hội ngành nghề, học giả và các chuyên gia khác, lãnh đạo các doanh nghiệp Việt Nam và doanh nghiệp có đầu tư nước ngoài, các tổ chức phi chính phủ (đặc biệt là ở những chuyên ngành như lao động và môi trường).

Một khi đã tập hợp, các vị này sẽ nhận diện những lĩnh vực mà các quy định hiện hành của Việt Nam chưa đáp ứng được tiêu chuẩn quốc tế và những gì cần phải nâng lên chuẩn cần thiết. Quá trình này sẽ bắt đầu khiến cho các nhà thương thuyết nhận biết được đất nước đang bị tụt hậu ở chỗ nào, cần đưa ra thay thế nào để nâng quy định lên tiêu chuẩn chấp nhận được.

Cạnh tranh: bài toán quan trọng nhất cần giải

Độc giả Cao Thanh Bình (Quảng Ninh, kỹ sư xây dựng): TTP sẽ tạo điều kiện mở ra thị trường rộng lớn cho hàng hoá xuất khẩu của Việt Nam, cũng như mở ra hợp tác kinh tế nhiều mặt với các nước khác. Tuy nhiên, Việt Nam sẽ phải giải bài toán: làm thế nào để hạn chế thách thức cạnh tranh ngày càng lớn với hàng hoá của Việt Nam, với doanh nghiệp và với cả nền kinh tế?

Luật sư Trần Hữu Huỳnh: Theo tôi, câu hỏi của bạn là có cơ sở thực tế và kinh nghiệm, thực tiễn cho thấy rằng, việc “thua trên sân nhà” là đã xảy ra đối với một thị trường nào đó, ở một hiệp định nào đó. Còn nếu phân tích sâu hơn thì thực tiễn cũng cho thấy, có những thị trường chúng ta xuất siêu, do đó, câu trả lời khả năng “thua trên sân nhà” là có thể xảy ra.

Nhưng có 2 điều cần lưu ý. Thứ nhất, hàng ngoại vốn đã chiếm thị phần lớn ở Việt Nam. Vì vậy, rất có thể với TPP, vấn đề sẽ nằm ở việc phân chia lại thị phần giữa các nhà xuất khẩu nước ngoài tại Việt Nam. Nếu các qui định của TPP tạo thuận lợi bao gồm thuế, thuận lợi hóa hải quan, minh bạch thủ tục, bảo hộ tốt về sở hữu trí tuệ ở mức cao hơn so với các cam kết khác thì không loại trừ hàng hóa của các nước có công nghệ sản xuất tiên tiến với giá cả phù hợp sẽ hấp dẫn hơn đối với người tiêu dùng Việt Nam.

Thứ hai là, một số ngành, doanh nghiệp của Việt Nam cũng tự tin rằng, các sản phẩm của mình sẽ chiếm lĩnh những phân khúc thị trường với lợi thế về giá.

Về các biện pháp nâng cao tính cạnh tranh có thể nói rất nhiều. Tuy nhiên, điều quan trọng hơn là quan niệm của chúng ta về việc chấp nhận coi cạnh tranh như là một sức ép để từ đó, có động cơ tốt, để doanh nghiệp tự đổi mới, cải thiện sức cạnh tranh của mình.

Hội nhập sâu với việc cam kết mở rộng sâu các mảng dịch vụ đầu tư cũng là một biện pháp để thu hút các nhà đầu tư đến từ các thành viên TPP với công nghệ tốt, quản trị tốt, cùng hợp tác với các doanh nghiệp Việt Nam để nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, góp phần giảm thâm hụt ngân sách, có các sản phẩm hàng hóa, dịch vụ, có đủ khả năng để cạnh tranh với các hàng nhập ngoại. Từ đó, có thể giúp giảm thiểu nhập siêu.

Vấn đề còn lại là, cần phải xây dựng một môi trường pháp luật kinh doanh có khả năng cạnh tranh hơn nhiều quốc gia khác để hiện thực quá quá trình đó.

Bà Phạm Chi Lan: TPP cũng như mọi hiệp định về hội nhập quốc tế mà chúng ta tham gia đều nhằm mở rộng hợp tác kinh tế với các nước, thúc đẩy xuất khẩu và thu hút đầu tư nước ngoài. Và cũng như các hiệp định đã tham gia, TPP có thể giúp VN đạt được những điều đó.

Tuy nhiên, rõ ràng là trong mọi cuộc chơi, phần thắng bao giờ cũng chỉ đến với những người có năng lực vượt qua thách thức của cạnh tranh, nắm bắt cơ hội để vượt lên chính mình và vượt lên hoặc cùng các đối thủ cạnh tranh khác chia sẻ thành công trên thương trường.

Bài toán về năng lực cạnh tranh của nền kinh tế và doanh nghiệp VN sẽ tiếp tục là bài toán quan trọng nhất mà nhà nước, doanh nghiệp và cả cộng đồng người dân VN nói chung, hợp sức để giải. Điều đáng tiếc là trong những năm qua, chúng ta đã nói rất nhiều, bàn rất nhiều và cũng đã đầu tư không ít tiền của, sức lực, tài nguyên và nỗ lực này nhưng kết quả đạt được cũng vẫn còn khá khiêm tốn.

Trong thời gian gần đây, không ít nghiên cứu đã được các tổ chức trong nước và nước ngoài đưa ra để đánh giá thành quả và những vấn đề trong phát triển kinh tế – xã hội ở Việt Nam. Rất nhiều kiến nghị cũng được đưa ra nhằm thay đổi mô hình tăng trưởng, cải thiện môi trường kinh doanh, tăng cường năng lực cạnh tranh của nền kinh tế và các doanh nghiệp Việt Nam.

Sáng hôm nay, Michael Porter, nhà kinh tế hàng đầu thế giới về cạnh tranh, đã cùng một nhóm nghiên cứu đưa ra báo cáo đầu tiên về năng lực cạnh tranh của VN, trong đó có một số khuyến nghị cụ thể rất đáng xem xét. Mong rằng, lãnh đạo Chính phủ, các ngành quan tâm và đưa ra những quyết định cần thiết để thực hiện những giải pháp cụ thể cho vấn đề thực sự cấp bách này.

Tìm kiếm sự thỏa hiệp về yếu tố kinh tế thị trường

Độc giả Nguyễn Mai Thu (Bà Rịa – Vũng Tàu): Hầu như các nước TPP chưa công nhận Việt Nam là một nền kinh tế thị trường, bởi vậy, TPP sẽ không giúp loại bỏ các biện pháp chống bán phá giá của Mỹ, thậm chí Mỹ sẽ tiếp tục áp dụng phương pháp cho nền kinh tế phi thị trường đối với Việt Nam trong các vụ kiện chống bán phá giá. Đây có phải là một yếu tố để VN cân nhắc khi đàm phán TPP? VN cần làm gì để bảo vệ quyền lợi của mình?

Bà Phạm Chi Lan: Trong các nước tham gia đàm phán TPP, một số nước đã công nhận Việt Nam là nền kinh tế thị trường, như: Singapore, Brunei, Australia, New Zealand, Malaysia. Nước mà Việt Nam cần phải đàm phán và có lẽ khó nhất để đàm phán tìm kiếm sự công nhận thể chế kinh tế thị trường cho Việt Nam chính là Hoa Kỳ.

Cho đến nay, một số sản phẩm của Việt Nam đã bị Hoa Kỳ áp dụng những biện pháp chống bán phá giá. Hoa Kỳ là một thị trường xuất khẩu lớn của VN nên đương nhiên Việt Nam mong muốn Hoa Kỳ công nhận Việt Nam có kinh tế thị trường để giảm bớt sức ép của những vụ kiện tương tự từ Hoa Kỳ.

Trong một thiết chế mà đa số thành viên đã công nhận kinh tế thị trường ở Việt Nam như TPP thì việc đàm phán với Hoa Kỳ có thể đỡ khó khăn hơn so với việc Việt Nam đàm phán song phương với Hoa Kỳ về vấn đề này. Mặt khác, chính Hoa Kỳ cũng rất quan tâm tới việc Việt Nam tham gia TPP.

Do vậy, hai bên có thể tìm cách đến gần nhau hơn trong vấn đề này để đảm bảo lợi ích chung dài hạn mà cả hai bên cùng hướng tới.

Luật sư Eric C. Emerson: Do không thể nói với Việt Nam như các quốc gia khác, theo tôi, Mỹ khó có thể đồng ý coi Việt Nam là một quốc gia có nền kinh tế thị trường trong thỏa thuận TPP. Tuy nhiên, Việt Nam có thể tìm kiếm để có TPP gồm cả quá trình chuyển giao để Việt Nam tiến lên một quốc gia có nền kinh tế thị trường vào trước năm 2018 – thời điểm hoàn tất theo thỏa thuận bổ sung.

Việt Nam cũng có thể tìm kiếm những ngành công nghiệp nhất định để được coi là “ngành công nghiệp hướng thị trường” để Bộ Thương mại Mỹ bắt buộc phải dùng biện pháp kinh tế thị trường cho những trường hợp đó.

Độc giả Cao Thành Hải (Ninh Bình): Một số người cho rằng, Việt Nam không nên trông mong được Mỹ thừa nhận là nền kinh tế thị trường thông qua đàm phán TPP. Ông nghĩ sao về vấn đề này?

Luật sư Eric C. Emerson: Tôi đồng ý. Về các lý do chính trị, tôi hoài nghi rằng Mỹ sẽ đồng ý coi Việt Nam như là một đất nước có nền kinh tế thị trường.

Tuy nhiên, Việt Nam có thể tìm kiếm sự thỏa hiệp với TPP, bao gồm tiến trình chuyển tiếp Việt Nam trở thành một quốc gia kinh tế thị trường trước năm 2018. Việt Nam cũng có thể tìm cho mình một số ngành công nghiệp được coi là “ngành công nghiệp có định hướng thị trường”, và yêu cầu Bộ Thương mại Mỹ áp dụng quy chế kinh tế thị trường với những trường hợp đó.

Cũng có nhiều chiến lược khác mà Việt Nam có thể thử áp dụng để giảm bớt những ảnh hưởng tiêu cực từ tình trạng kinh tế phi thị trường mà Mỹ đang ứng xử với Việt Nam như hiện nay.

TPP là đàm phán FTA duy nhất Mỹ đang tham gia

Độc giả Thu Giang Nguyệt (công chức Nhà nước, Hòa Bình): Thưa ông, liệu có trở ngại nào sẽ khiến Mỹ không đi tới cùng trong việc đàm phán và ký kết TPP hay không?

Luật sư Eric C. Emerson: Theo tôi, nên tách câu hỏi này thành hai ý. Thứ nhất là, liệu Mỹ có tham gia vào các cuộc đàm phán này để đi tới ký kết thỏa thuận hay không? Thứ hai là, liệu Quốc hội Mỹ có phê chuẩn thỏa thuận này hay không.

Về câu hỏi thứ nhất, tôi nghĩ câu trả lời chắc chắn là “có”. TPP là một phần quan trọng trong chính sách thương mại của Chính phủ Mỹ hiện nay. Trước hết là vì, Tổng thống Obama đã công bố Sáng kiến xuất khẩu quốc gia, với mục tiêu nâng gấp đôi kim ngạch xuất khẩu Mỹ trong vòng 5 năm.

Chính phủ Mỹ sẽ khó có thể đạt được mục tiêu này mà không đàm phán bất cứ hiệp định thương mại tự do với đối tác nào. Hiện, TPP có lẽ là đàm phán FTA duy nhất mà Mỹ đang tham gia.

Thứ hai, chính quyền Mỹ hiện tại đã cam kết cải thiện quan hệ của Mỹ ở châu Á cả về chính trị cũng như kinh tế, cho nên họ sẽ quan tâm tới việc tham dự cuộc đàm phán này, thậm chí cả khi họ đang quan tâm tới việc tham gia một FTA ở nơi nào khác trên thế giới.

Quả thực, tôi nghĩ là, rủi ro lớn hơn là chính quyền hiện tại có thể đồng ý một cái gì đó ít hơn một thỏa thuận hoàn chỉnh, coi như là thông báo đã đạt được thỏa thuận.

Câu thứ hai khó trả lời hơn. Việc TPP có được Quốc hội Mỹ thông qua hay không sẽ dựa trên nhiều yếu tố, trong đó phần nhiều hiện chúng ta chưa rõ gồm những yếu tố gì.

Ví dụ, tình trạng các FTA giữa Mỹ với Columbia, Panama, Hàn Quốc sẽ ra sao khi TPP được bỏ phiếu? Tôi mong là những FTA như vậy sẽ được thông qua, bởi lẽ nếu một trong số chúng bị từ chối, đó sẽ là trở ngại đối với TPP.

Hoặc một vấn đề khác là quan hệ giữa Tổng thống Obama và đảng Cộng hòa vào thời điểm bỏ phiếu TPP như thế nào? Đảng Cộng hòa đã giành quyền kiểm soát Hạ viện, nên việc thông qua thỏa thuận sẽ trở nên khó khăn hơn. Tuy nhiên, cũng cần lưu ý là, cựu Tổng thống Bill Clinton đã từng nhận được sự cổ vũ của các nghị sỹ Cộng hòa trong Hạ viện khi thông qua Hiệp định thương mại tự do Bắc Mỹ (NAFTA).

Rốt cuộc thì TPP có được coi là có lợi cho nước Mỹ hay không? Theo tôi, sẽ phải mất nhiều thời gian nữa mới tìm được câu trả lời. Nhưng câu trả lời này sẽ có ảnh hưởng quan trọng tới việc liệu TPP có được Quốc hội Mỹ thông qua hay không.

Tóm lại, mặc dù tôi tin là chính quyền hiện tại đã cam kết đạt được thỏa thuận, nhưng vẫn còn quá sớm để dự đoán liệu nó có được Quốc hội Mỹ thông qua hay không.

Độc giả Hồng Ngân (Bộ KH-CN): Việt Nam là nước bị phàn nàn nhiều về vi phạm sở hữu trí tuệ, mặc dù Mỹ rất tích cực khuyến khích Việt Nam gia nhập TPP nhưng vẫn không bỏ qua những yêu cầu tối thiểu về sở hữu trí tuệ. Theo ông, Việt Nam nên làm gì để đáp ứng những điều kiện mà Mỹ đặt ra?

Luật sư Trần Hữu Huỳnh: Về sở hữu trí tuệ, như tôi được biết, yêu cầu từ phía một số thành viên đàm phán cao hơn là các cam kết trong WTO, hay còn gọi là “TRIPS+” . Trong điều kiện của Việt Nam hiện nay, việc chấp nhận vô điều kiện “TRIPS+” là rất khó khả thi. Do đó, chúng ta căn cứ vào năng lực sản xuất, công nghệ của doanh nghiệp, khả năng quản lý của các cơ quan Nhà nước có liên quan, các điều kiện kinh tế xã hội khác để đạt mức gần “TRIPS+” có thể.

Trong thực thi bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ, chúng ta cần phải kiên quyết, nghiêm khắc để pháp luật về sở hữu trí tuệ nói riêng, pháp luật kinh doanh nói chung có đủ sức hấp dẫn những nhà đầu tư lớn, với những công nghệ hiện đại đầu tư vào Việt Nam, cùng với Việt Nam vượt qua cái bẫy của nước có nước có mức thu nhập trung bình.

Luật sư Eric C. Emerson: Một trong những đòi hỏi mạnh nhất của Mỹ với đối tác Hiệp định tự do thương mại của nước này là thực thi quyền sở hữu trí tuệ. Việt Nam không nên mong đợi Mỹ hay bất cứ quốc gia TPP nào khác cho phép Việt Nam chậm trễ trong việc thực hiện bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ.

Nói chung, việc thực thi bảo vệ sở hữu trí tuệ gồm 2 phần: cơ cấu pháo để bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ và việc áp dụng thực tế.

Liên quan tới khía cạnh đầu tiên của việc thực thi sở hữu trí tuệ, Việt Nam đã có những bước tiến lớn hồi 2009 trong việc cải tổ và tăng cường luật sở hữu trí tuệ. Tuy nhiên, Việt Nam vẫn cần xem xét các quy định bổ sung ở một số lĩnh vực nhất định để đảm bảo rằng có một kết cấu pháp lý vững chắc cho việc giải quyết những vi phạm sở hữu trí tuệ. Trong lĩnh vực này, tôi cho rằng các bên trong TPP sẽ sẵn sàng hỗ trợ Việt Nam xây dựng những quy định phù hợp.

Việt Nam dường như đang kém ở lĩnh vực thực thi, đặc biệt với truyền thông đại chúng như CD, DVD.. và trong lĩnh vực sao chụp bất hợp pháp trên Internet. Cả hai khu vực này đều khó giải quyết, đặc biệt là ở một nước đang phát triển có nguồn lực hạn chế. Ở đây, Việt Nam có thể nhờ các bên khác của TPP trợ giúp, có lẽ dưới dạng một ủy ban chung để thực thi bảo vệ sở hữu trí tuệ, để thu thập ý tưởng và chỉ dẫn về cách chống các dạng của xâm phạm.

Theo phán đoán của tôi, trong những cuộc thương thuyết như vậy, thái độ của Việt Nam trong việc giải quyết vấn đề vi phạm sở hữu trí tuệ có lẽ cũng quan trọng ngang với việc theo dõi vi phạm trong thực tế. Ghi nhận những vi phạm sở hữu trí tuệ và tỏ thái độ sẵn sàng hợp tác với các đối tác TPP để giải quyết vấn đề sẽ dần hướng tới giải tỏa lo ngại của các đối tác TPP khác.

Vào TPP, Việt Nam có thể cải thiện quan hệ thương mại với Trung Quốc

Độc giả nhumy…@yahoo.com: Mỹ ủng hộ Việt Nam gia nhập TPP vì muốn hiệp định này là đối trọng với Trung Quốc. Vậy, các nước sau khi gia nhập TPP thì mối quan hệ thương mại với Trung Quốc như thế nào?

Bà Phạm Chi Lan: Mỹ quan tâm đến tham gia TPP trước hết vì lợi ích thương mại toàn cầu của họ, trong đó có việc muốn tăng cường lợi ích thương mại của Mỹ ở khu vực châu Á – Thái Bình Dương đang phát triển rất năng động và hội nhập rất nhanh chóng và vai trò của hai nền kinh tế mới nổi lớn là Trung Quốc và Ấn Độ đang ngày càng lớn trong khu vực.

Nhìn chung, các nước có quy mô kinh tế nhỏ hơn như Việt Nam đều mong muốn phát triển một cách hài hòa và cân bằng quan hệ kinh tế với các quốc gia lớn trên thế giới và trong khu vực. Ngoài Hoa Kỳ, Việt Nam và ASEAN cũng đang thúc đẩy mạnh mẽ quan hệ kinh tế với Nhật Bản, EU, Nga, Trung Quốc…

Trung Quốc là một nền kinh tế rất lớn, có ảnh hưởng sâu rộng về nhiều mặt tới sự phát triển trong khu vực. Do vậy, đương nhiên Việt Nam cũng như các nước khác trong TPP sẽ tiếp tục thúc đẩy quan hệ thương mại với người bạn hàng rất quan trọng này.

Việt Nam tham gia TPP sẽ không ảnh hưởng tiêu cực gì tới quan hệ thương mại Việt – Trung. Trái lại, nếu thông qua tham gia TPP, Việt Nam có thể cải thiện năng lực cạnh tranh của mình thì quan hệ thương mại Việt – Trung sẽ có thể được cải thiện theo hướng cân bằng hơn, bền vững hơn, thực sự đảm bảo lợi ích của hai bên hơn.

Độc giả [email protected]: Thưa ông, Mỹ đang đề xuất về qui định về xuất xứ hàng hóa trong TPP, khi xuất khẩu sẽ phải có nguồn gốc từ các nước thành viên TPP mới được hưởng lợi của TPP. Trung Quốc không thuộc nhóm TPP. Nếu chấp nhận thì những ngành nào ở Việt Nam sẽ bị bất lợi trước mắt?

Luật sư Trần Hữu Huỳnh: Theo tôi, cách tiếp cận vấn đề có thể rộng hơn, không chỉ liên quan đến một nước cụ thể như bạn đã nêu mà liên quan đến tất cả các nước nào không phải là thành viên của TPP.

Theo những đề xuất về xuất xứ hàng hóa trong TPP, được hiểu là, các sản phẩm xuất khẩu từ một thành viên của TPP sang các thành viên TPP khác đều phải có xuất xứ “nội khối TPP”.

Ví dụ, vải từ Việt Nam xuất khẩu vào các thành viên TPP khác, phải có xuất xứ của Việt Nam hoặc có xuất xứ từ các thành viên khác TPP. Khi đó các sản phẩm này mới được hưởng các ưu đãi mà các thành viên TPP dành cho nhau.

Như vậy, những ngành nào, sản phẩm nào, sử dụng các nguyên liệu của các nước thứ ba, ngoài thành viên TPP đều không được hưởng các ưu đãi nói trên.

Ở đây, nếu TPP được ký kết với qui tắc xuất xứ nội khối như trên thì có thể thấy dự đoán trước 2 khả năng: Một là, những ngành gia công chế biến như dệt may, da giày, điện tử, gỗ… hiện nay đang nhập khẩu từ các nước thứ 3 ngoài TPP cần phải được rà soát lại để tăng cường sử dụng các nguyên liệu trong nước hoặc nhập khẩu các nguyên liệu của các nước trong TPP.

Hai là, những ngành sản xuất hiện nay ở trong nước cũng cần phải nâng cao năng lực cạnh tranh với các hàng hóa từ các nước TPP, sẽ được hưởng những ưu đãi rất lớn khi nhập khẩu vào Việt Nam.

Quy tắc xuất xứ này của TPP vừa là một thách thức, cũng vừa là một cơ hội đối với các ngành sản xuất của Việt Nam. Nếu vượt qua được thách thức, khai thác được cơ hội, Việt Nam sẽ vượt qua gia công đơn giản, sử dụng lao động giá rẻ.

Cần hiểu biết và tham vấn rộng rãi về TPP

Độc giả Hoàng Hải (28 tuổi, TP. Đà Nẵng): Như bà đã nói, trong đàm phán gia nhập WTO, chúng ta đã rút ra nhiều bài học trong việc đàm phán, thỏa thuận về mức thuế. Vậy, đối với TPP, Việt Nam cần quan tâm và chú trọng đến yếu tố nào nhất? Nói Việt Nam chủ động hội nhập thì cụ thể phải hiểu như thế nào? Việt Nam phải làm gì để thực sự hội nhập?

Bà Phạm Chi Lan: Từ những bài học của việc đàm phán và đặc biệt là việc thực hiện các cam kết với WTO trong gần 4 năm qua, trong việc chuẩn bị tham gia TPP chúng ta rất cần quan tâm tới một số công việc quan trọng sau:

1. Nghiên cứu để đánh giá những tác động tích cực cũng như tiêu cực của TPP đối với nền kinh tế, các ngành, các sản phẩm quan trọng và các doanh nghiệp VN. Nghiên cứu này cần được làm một cách sâu rộng, có tính toán đến bối cảnh của nước ta, và đặc biệt là bối cảnh hội nhập và cạnh tranh quyết liệt trong khu vực và trên toàn cầu hiện nay và tương lai.

2. Tham vấn rộng rãi các doanh nghiệp, các nhà nghiên cứu và các đối tượng liên quan trong xã hội. Tham vấn này một mặt giúp các doanh nghiệp và các đối tượng khác có được thông tin, dự báo cần thiết về tiến trình tham gia TPP, mặt khác, giúp các cơ quan nhà nước hiểu rõ hơn thực tiễn trong các lĩnh vực cụ thể trong đời sống kinh tế xã hội để có quyết định đúng đắn khi đàm phán và cam kết với TPP.

 

3. Tiến hành các biện pháp cải cách thể chế, tái cấu trúc kinh tế, cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh của các ngành, các sản phẩm, các doanh nghiệp. Đây là sự chuẩn bị quan trọng và cấp thiết để chúng ta có thể chủ động đối phó với những thách thức và tận dụng các cơ hội có thể mở ra khi tham gia TPP.

Đây cũng chính là những việc cần làm nhất để chủ động hội nhập.

Độc giả Nguyễn Thị Lan (35 tuổi, chuyên gia chứng khoán, Hà Nội): Xưa nay mỗi lần tham gia một hiệp định, các chuyên gia chỉ đưa ra được cái hay mà không chỉ ra được cái dở, hoặc cái hay thì đa số, cái dở thì một dòng. Đến khi ký xong rồi, thì mới nêu ra thì đã muộn. Với TPP lần này thì thế nào? Việt Nam đã dành bao nhiêu thời gian để nghiên cứu và kết quả ra sao?

Luật sư Trần Hữu Huỳnh: Nếu tôi hiểu không nhầm thì ý của bạn trong câu hỏi là, xưa nay, khi tham gia một hiệp định, các chuyên gia chỉ đưa ra được những cơ hội mà không chỉ ra được những thách thức.

Nếu hiểu vấn đề như vậy, tôi cho rằng, nhận xét của bạn là tương đối đúng. Nhưng nếu nhìn ở góc độ tích cực, ta thấy rằng, trong mỗi cơ hội đó đều có thách thức và trong mỗi thách thức đều có cơ hội.

Nhìn lại quá trình đàm phán trước đây, có thể thấy, mặc dù các đoàn đàm phán đều có rất nhiều cố gắng, nhưng vẫn còn có những điều có thể rút kinh nghiệm, như một là đánh giá tác động của các hiệp định thương mại một cách toàn diện, trên bài toán lợi ích và chi phí tổng thể.

Thứ hai là, để đánh giá được điều này, ngoài các cơ quan quản lý Nhà nước, cần có tiếng nói tham vấn, phản biện của các ngành hàng, doanh nghiệp là những đối tượng chịu ảnh hưởng của các hiệp định thương mại đó. Có tiếng nói của họ, việc đánh giá tác động sẽ được toàn diện hơn, cụ thể hơn, chính xác hơn và một điều hết sức quan trọng là, chúng ta thực hiện các cam kết với một vị thế chủ động hơn, tích cực hơn.

Cùng với thời gian, những vấn đề này đang được cải thiện dần, đã có những diễn đàn giữa các cơ quan quản lý nhà nước với các hiệp hội, doanh nghiệp, trao đổi về những vấn đề minh bạch trong quá trình đàm phán các hiệp định.

Chúng ta hi vọng rằng, trong tương lai gần, cái hay, cái dở theo ý của bạn, hoặc cơ hội và thách thức theo cách hiểu của tôi sẽ được nêu ra một cách minh bạch, khoa học và thực tiễn.

Tôi tin rằng, TPP lần này, với ý nghĩa là một hiệp định của thế kỷ 21, sẽ tác động và ảnh hưởng lớn lao đối với việc thúc đẩy Việt Nam phát triển bền vững.

Quá trình chuẩn bị, đàm phán, tham vấn ý kiến rộng rãi của các chủ thể có liên quan, sẽ được thực hiện một cách chủ động, bài bản và cầu thị.

Để đi đến quyết định trở thành thành viên đàm phán đầy đủ của TPP, Việt Nam đã phải mất ít nhất một năm để cân nhắc, sau khi tham gia 3 vòng đàm phán TPP với tư cách là thành viên quan sát.

Hi vọng rằng, khoảng thời gian mà các thành viên khác cho là “trì hoãn” này của Việt Nam đã được các nhà hoạch định chính sách của chúng ta dành cả cho việc cân nhắc những thiệt – hơn từ TPP đối với Việt Nam trong tương lai cũng như chuẩn bị những phương án thích hợp để đàm phán đạt hiệu quả cao nhất có thể.

Bài học thành công và chưa thành công trước đây, sẽ giúp chúng ra rút ngắn quá trình này. Tuy nhiên, có một điểm cần nhắc lại, là những cân nhắc tính toán nghiên cứu này nếu có cần phải tính tới lợi ích của doanh nghiệp và cộng đồng nói chung.

Gần 97% ý kiến được hỏi đồng ý VN nên gia nhập TPP

Độc giả Nguyễn Trung Thứ (47 tuổi, quản lý Dược, Nghệ An): Được biết, VCCI đã có tổ chức lấy ý kiến về Hiệp định TPP. Ông có thể cho biết phản hồi của các doanh nghiệp Việt Nam như thế nào? Họ có ủng hộ không?

Luật sư Trần Hữu Huỳnh: Hôm 4/11/2010, VCCI đã tổ chức đợt lấy ý kiến đầu tiên về việc đàm phán gia nhập hiệp định TPP. Đó là các doanh nghiệp, hiệp hội, chuyên gia, luật sư, các giảng viên đại học… Tỷ lệ ý kiến đồng ý Việt Nam nên tham gia đàm phán TPP là 96,94%. Trong đó, các nhóm lĩnh vực cam kết gồm thương mại hàng hóa, thương mại dịch vụ, quyền sở hữu trí tuệ, đầu tư, lao động đều đạt tỷ lệ trung bình đồng ý trên dưới 90%.

Trong đó, tỷ lệ thấp nhất là quyên sở hữu trí tuệ, tỷ lệ đồng ý cao nhất là thương mại hàng hóa.

Và như chúng ta đã biết, ngày 13/11/2010 Việt Nam đã chính thức tham gia đàm phán TPP theo tuyên bố của chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết tại hội nghị APEC.

Cùng với những khảo sát, nghiên cứu tổng kết khác về hiệp định thương mại quốc tế, cho thấy giới doanh nghiệp Việt Nam luôn ủng hộ các sáng kiến về hội nhập thương mại quốc tế. Vấn đề còn lại là, phải chủ động để khai thác các lợi thế, đồng thời, giảm thiểu các rủi ro từ việc thực hiện các cam kết quốc tế. Việc này ngoài doanh nghiệp, hiệp hội, vai trò của quản lý Nhà nước là hết sức quan trọng.

Độc giả Phan Hiệu (55 tuổi, cán bộ hành chính, Đồng Tháp): Xin hỏi vai trò của VCCI, cụ thể là Ban Pháp chế, trong việc tư vấn và hỗ trợ Việt Nam đàm phán gia nhập TPP ra sao? VCCI có gặp khó khăn gì và cần được hỗ trợ như thế nào, đặc biệt là đội ngũ luật sư?

Luật sư Trần Hữu Huỳnh: VCCI là đại diện cộng đồng doanh nghiệp Việt Nam, có chức năng tham vấn về chính sách và pháp luật cho Đảng và Nhà nước Việt Nam.

Tham gia vào hoạt động tư vấn các chính sách thương mại quốc tế là một trong những nội dung hoạt động của VCCI. Điểm mới trong hoạt động này là kiến nghị để Việt Nam tham gia các công ước quốc tế, ví dụ như Công ước mua bán hàng hóa quốc tế (Công ước VIEN 1980) hay lấy ý kiến của cộng đồng doanh nghiệp về các dự thảo hiệp định thương mại quốc tế mà các đoàn đàm phán Việt Nam đang triển khai.

Để thực hiện chức năng này, VCCI đã hướng dẫn các ngành, doanh nghiệp, hiệp hội xác định các quan điểm phù hợp, khuyến khích việc nêu ý kiến, tổng hợp và hài hòa hóa các lợi ích, mâu thuẫn để đề xuất với Chính phủ, theo dõi và phản hồi và là cầu nối giữa doanh nghiệp và Chính phủ trong vấn đề này.

Khó khăn lớn nhất là nhận thức hiện nay của các ngành doanh nghiệp về vấn đề này chưa cao, chưa chủ động tham gia. Mong muốn của VCCI là, để minh bạch trong chính sách, giảm thiểu các xung đột về lợi ích hạn chế bớt các rủi ro trong tương lai do kết quả các đàm phán thương mại quốc tế, các doanh nghiệp, hiệp hội, ngành hàng cần tích cực, chủ động hơn trong việc góp ý, kiến nghị, cung cấp thông tin, vận động tích cực trong quá trình đàm phán các hiệp định thương mại quốc tế.

Mặt khác, các cơ quan Nhà nước có liên quan cũng cần chủ động, cầu thị, trong việc tổ chức lấy ý kiến của các doanh nghiệp hiệp hội ngành hàng, khi xử lý các vấn đề có thể xung đột về lợi ích giữa các nhóm lợi ích khác nhau trong quá trình đàm phán, cũng cần phải được minh bạch, khoa học và đặt lợi ích quốc gia lên trên hết.

Diễn đàn Kinh tế Việt Nam