Trang chủ » Kinh tế 24h » “Đô la hóa” và niềm tin vào đồng tiền Việt Nam

“Đô la hóa” và niềm tin vào đồng tiền Việt Nam

Tác giả:

Theo một nghiên cứu của Ngân hàng Phát triển Châu Á (ADB), trong quá trình giải quyết vấn đề đa tiền tệ trong nền kinh tế của mình, một nhóm nước như Việt Nam, Lào và Cam-pu-chia có thể được hưởng lợi từ các hoạt động hợp tác khu vực trong các vấn đề tài chính và tiền tệ nhằm tận dụng tính hiệu quả kinh tế theo quy mô, đưa ra các thông lệ tốt và tạo thuận lợi cho việc thông qua các tiêu chuẩn pháp lý chung.

Nghiên cứu với tiêu đề “Giải quyết vấn đề đa tiền tệ tại các nền kinh tế chuyển đổi: Phạm vi hợp tác tại Cam-pu-chia, CHDCND Lào và Việt Nam“, là một nghiên cứu tiên phong về hiện tượng đa tiền tệ, trong đó đưa ra những đề xuất quan trọng nhằm thúc đẩy hợp tác tài chính và tiền tệ.

Tại Việt Nam, CHDCND Lào và Cam-pu-chia, những đồng tiền của các nước khác, đặc biệt là đồng đôla, được sử dụng rộng rãi. Tỷ trọng ngoại tệ dao động từ khoảng 20% nguồn tiền lưu thông tại Việt Nam, khoảng 50% tại CHDCND Lào và hơn 90% tại Campuchia.

Ông Ayumi Konishi, Giám đốc Quốc gia ADB tại Việt Nam, cho rằng: “Giải quyết tình trạng đô la hóa và đa tiền tệ là một vấn đề thuộc chính sách kinh tế quốc gia, và Việt Nam đã có những tiến bộ tốt trong quá trình phi đô la hóa.

Tuy nhiên, ông cho rằng các cơ quan quản lý, đặc biệt Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, đã nhận thức đầy đủ rằng các giải pháp hành chính không thôi sẽ không thể đạt hiệu quả để giảm tình trạng “đô la hóa” nền kinh tế Việt Nam.

“Điều quan trọng là cần tăng cường niềm tin của nhân dân đối với đồng tiền Việt Nam thông qua tăng trưởng kinh tế cao và bền vững, ổn định tỷ giá, cải cách  chính sách tiền tệ và tăng cường năng lực của các thể chế tài chính.” Ông Konishi nhấn mạnh.

Nghiên cứu cũng cho thấy chi phí và lợi ích của hiện tượng đôla hóa. Về khía cạnh lợi ích, hiện tượng này có thể tạo nguyên tắc cho các chính phủ vì khi đó chính phủ sẽ không thể dễ dàng tài trợ thâm hụt ngân sách thông qua việc in tiền mà chỉ bằng biện pháp tăng thuế. Hơn nữa, hiện tượng đô la hóa dẫn đến tỷ giá gần như cố định và do đó giá cả sẽ ổn định hơn.

Tuy nhiên, việc sử dụng nhiều đồng tiền có thể giảm khả năng kiểm soát của các cơ quan quản lý kinh tế đối với các chính sách tỷ giá và tiền tệ; điều này cũng giảm khả năng của ngân hàng trung ương với tư cách là “người cho vay cuối cùng” trong trường hợp xảy ra khủng hoảng ngân hàng.

Theo ông Jayant Menon, chuyên gia kinh tế cao cấp của Vụ Hội nhập Kinh tế Khu vực của ADB, đồng biên tập viên của cuốn sách phát biểu: “Quá trình đô la hóa làm giảm hiệu quả của các công cụ ổn định kinh tế vĩ mô, nhất là chính sách tiền tệ và tỷ giá mà các nước như Việt Nam cần có để giải quyết các thách thức kinh tế và phát triển như tỷ lệ lạm phát gia tăng.

“Việc điều chỉnh trước các cú sốc bên ngoài cũng có thể kéo dài hơn và khó khăn hơn khi xuất hiện hiện tượng đô la hóa, thậm chí chỉ một phần hiện tượng này”, ông Menon nói thêm.

Đô la hóa là tình trạng mà tỷ trọng tiền gửi bằng ngoại tệ chiếm trên 30% trong tổng khối tiền tệ mở rộng bao gồm: tiền mặt trong lưu thông, tiền gửi không kỳ hạn, tiền gửi có kỳ hạn và tiền gửi ngoại tệ. Nó là tình trạng khó tránh khỏi đối với những nước có xuất phát điểm thấp, đang trong quá trình chuyển đổi nền kinh tế và từng bước hội nhập như Việt Nam.

Xóa bỏ đô la hóa không phải là xóa bỏ hoàn toàn và phủ định tất cả vì cũng giống như lạm phát, phải duy trì ở một mức độ phù hợp và ổn định để thúc đẩy phát triển kinh tế.