Trang chủ » Điểm nóng » Tạo sức ép lên độc quyền để có giá thị trường

Tạo sức ép lên độc quyền để có giá thị trường

Tác giả:

Kinh tế Việt Nam cần xác định lợi thế mới

Tiếp mạch câu chuyện về tái cấu trúc nền kinh tế Việt Nam và xác định những lợi thế cạnh tranh mới, Diễn đàn Kinh tế Việt Nam (VEF.VN) – báo VietNamNet giới thiệu phần tiếp theo của bài phỏng vấn bà Phạm Chi Lan.

Mới cạnh tranh một chiều

– Năm qua cũng đánh dấu bước đi đầu tiên về thị trường hoá giá cả tại Việt Nam, điển hình là mặt hàng điện và xăng dầu. Nhưng chính sách này đang vấp phải những yếu tố liên quan đến độc quyền, còn các tập đoàn nắm giữ các ngành chủ chốt lại thua lỗ và kinh doanh kém hiệu quả. Vậy trong năm tới, Việt Nam cần tiếp tục thực hiện lộ trình đó như thế nào để minh bạch hoá giá cả và đúng quy luật thị trường?

Bà Phạm Chi Lan: Thực tế ở nước ta hầu hết các mặt hàng đã được thị trường hóa về giá cả và hoạt động kinh doanh, chỉ còn vài mặt hàng do các DNNN, tập đoàn kinh tế nắm giữ, trong đó nổi lên nhất là điện và xăng dầu do ảnh hưởng lớn của nó đến các ngành hàng khác. Chính phủ đã quyết định dần dần thị trường hoá về giá cả điện và xăng dầu, chấm dứt bao cấp trong giá cả các mặt hàng này. Chủ trương thì hoàn toàn đúng, nhưng lộ trình thực hiện cần đi song song với quá trình tạo thị trường cạnh tranh thực sự cho các sản phẩm đó thì mới có tác dụng và mới đảm bảo được lợi ích của nền kinh tế, của các ngành và đối tượng tiêu dùng cũng như của chính hai ngành này.

Không có cạnh tranh thì không có giá thị trường thực sự và ngành đó, các doanh nghiệp trong ngành đó cũng không thể phát triển một cách lành mạnh được.

Đừng sợ thị trường cạnh tranh thì không ai kiểm soát được. Trong thị trường cạnh tranh, Nhà nước vẫn có quyền và có thể kiểm soát được đối với các sản phẩm quan trọng này vì lợi ích của cả nền kinh tế và đông đảo người tiêu dùng. Kinh nghiệm các nước khác đã có rất nhiều, ta hoàn toàn có thể học được.

Hiện nay độc quyền doanh nghiệp còn rất rõ ở ngành điện. Mặc dù ngành điện tuyên bố bắt đầu có thị trường cạnh tranh về cung cấp điện, nhưng mua điện và truyền tải, phân phối điện vẫn là độc quyền của EVN, thì thị trường cạnh tranh đó mới chỉ giải đáp được một phần, và sự độc quyền bởi EVN vẫn bao trùm, chi phối và do đó cản trở sự phát triển của toàn bộ ngành này. Đến những “ông lớn” khác như PVN, TKV tham gia cung cấp điện mà còn bị EVN ‘bắt nạt”, thì làm sao những doanh nghiệp khác tham gia thị trường phát điện yên tâm đầu tư. Giá mua điện, giá bán điện đều do EVN quyết thì đâu phải là giá thị trường! Do vậy, rất cần tạo hệ thống thị trường đầy đủ, đồng bộ hơn thì mới hình thành giá thị trường trong lĩnh vực này được.

Hay xăng dầu có 11 DN tham gia hoạt động, trong đó có 3 DNNN lớn chiếm gần hết thị phần, thì tuy không phải là độc quyền của một DN nhưng đã hình thành độc quyền nhóm, từ đó dẫn tới tình trạng khi tăng giá thì đồng loạt tăng với một mức y như nhau, hoặc đến lúc thị trường thế giới giảm thì các DN lại chờ đến bao giờ Nhà nước có tín hiệu buộc Petrolimex giảm thì mới giảm theo. Giá xăng dầu hình thành theo kiểu đó về cơ bản vẫn là giá độc quyền chứ không phải giá thị trường.

Ai cũng biết rằng chẳng bao giờ có chuyện DN tự giác hoặc dễ dàng chấp nhận từ bỏ độc quyền, đặc quyền và gắn với nó là đặc lợi của họ. Vì vậy cần có vai trò của nhà nước và xã hội thúc đẩy, tạo sức ép và giám sát họ thực hiện thị trường hóa giá cả.

Về vai trò của Nhà nước trong điều tiết hai loại giá này, theo quan sát trong hầu hết các trường hợp từ trước tới nay, có thể thấy cả hai Bộ Công Thương và Tài chính đều đồng tình với các ông độc quyền nhiều hơn, thậm chí còn đứng ra giải thích hộ cho DN mỗi khi tăng giá. Trong khi đó hiếm khi thấy các Bộ tỏ thái độ hoặc trình bầy hành động của mình theo hướng đứng trên lợi ích của cả nền kinh tế và đông đảo người tiêu dùng để xem xét một cách đầy đủ, toàn diện, đặc biệt là xem xét kỹ về cung cách quản lý, hoạt động kinh doanh, cơ cấu giá thành của các DN này. Chính vì vậy mà công luận đã hết lời khen Bộ trưởng Vương Đình Huệ khi ông tuyên bố xem xét giá xăng dầu phải vì quyền lợi của hơn 80 triệu người chứ không phải vì lợi ích của 11 DN.

Vừa rồi Bộ trưởng Tài chính Vương Đình Huệ cũng tuyên bố sẽ minh bạch hoá giá thành của xăng dầu và điện, tôi cho rằng đó là việc quan trọng phải làm bởi khi xã hội bị “bịt mắt” về thông tin thì không thể đồng tình với thị trường hóa giá 2 mặt hàng này, nhất là theo cách như vừa qua các Bộ và DN làm được. Hơn nữa, đó là bước quan trọng để có thể đánh giá lại toàn bộ các vấn đề đầu tư, kinh doanh của các DN trong 2 lĩnh vực này, tạo sức ép cho các DN phải cải thiện năng lực kinh doanh, giảm giá thành. Đồng thời trên cơ sở đó nhà nước có thể quyết định cách thức tạo và kiểm soát cạnh tranh thực sự trên các lĩnh vực đó để sớm có thị trường cạnh tranh về điện và xăng dầu.

6 trông đợi để DN yên ổn làm ăn

– Vậy Nhà nước nên hỗ trợ các DN như thế nào trong năm tới, thưa bà?

Năm 2012, DN mong nhất là nhà nước sớm ổn định kinh tế vĩ mô, tiến hành tái cấu trúc nền kinh tế, cải cách mạnh thể chế và cải thiện môi trường kinh doanh để kinh tế nước nhà có thể phát triển ổn định, bền vững hơn, trên cơ sở đó DN mới yên ổn làm ăn được. Trong các chính sách cụ thể có mấy điều DN trông đợi ở Nhà nước như sau:

Thứ nhất là cần xem lại hệ thống thuế. Thuế ở Việt Nam vẫn cao, và rất tiếc là tại kỳ họp vừa rồi Quốc hội đã không xem xét kiến nghị về thực hiện khoan sức dân bằng cách giảm thuế. Ở nước ta huy động qua thuế và phí quá nhiều của người dân và DN, với mức thực tế trên 30% trong khi ở các nước khác thì trung bình chỉ khoảng 17%. Vì thế, nên giảm thuế thu nhập DN và một số loại thuế, phí khác xuống, để DN có tích lũy mà đầu tư thêm vào hoạt động sản xuất, kinh doanh của họ. Điều này càng cần trong bối cảnh hầu hết DN rất khó tiếp cận tín dụng ngân hàng và các nguồn vốn khác, trong khi FDI cũng đang khó thu hút hơn trước.

Ta đang chủ trương tái cấu trúc đầu tư công trên tinh thần nhà nước chỉ tập trung làm những dự án thật cần thiết, còn các dự án có tính chất thương mại thì để DN, người dân làm, khuyến khích hợp tác công – tư. Vậy thì càng cần bớt huy động vào ngân sách và tăng thêm phần để lại cho dân, cho DN.

Mặc dù có thị trường cạnh tranh về cung cấp điện, nhưng mua điện và truyền tải, phân phối điện vẫn là độc quyền của EVN, thì thị trường cạnh tranh đó mới chỉ giải đáp được một phần.

Cách hành thu thuế cũng cần cải thiện nhiều. Quy định như hiện nay không đủ chi tiết, cụ thể, nhiều định mức của nhà nước lạc hậu, nên vẫn có tình trạng mặc cả giữa cán bộ thu thuế và DN, mà mặc cả đau đầu nhất là nhiều chi phí trên thực tế DN phải trả cao hơn nhưng cơ quan quản lý không công nhận. Chi phí bôi trơn diễn ra phổ biến, tình trạng tham nhũng gây thiệt hại cả cho DN và cho ngân sách nhà nước. Vì thế, cần cải thiện mạnh tính minh bạch trong hệ thống luật pháp và các quy định về thuế cũng như trong hành thu thuế, đảm bảo tốt hơn lợi ích của nhà nước và của người nộp thuế.

Thứ hai, về đất đai, thời gian qua các tỉnh đều tăng giá đất tới 20-30%, nóng đến mức rất nhiều DN không chịu nổi. Một số DN đã phải nói thẳng với chính quyền tỉnh rằng, nếu tăng giá đất lên 30% thì họ trả lại đất, đóng cửa DN và xin trả lại địa phương lo việc làm cho công nhân.

Mấy năm nay, giá đất đai ở nước ta đã không ngừng tăng lên, làm giàu cho một số đại gia nhưng lại khiến đông đảo DN nhỏ và vừa không có đất phải chịu giá thuê ngày càng cao, đồng thời đẩy mặt bằng giá đất ở nước ta lên quá cao so với nhiều nước trong khu vực. Việc chính quyền các địa phương tăng giá đất như vậy rất bất hợp lý, Nhà nước cần xem xét lại để không gây thêm khó khăn cho các DN, đặc biệt các DN sản xuất, và ảnh hưởng xấu tới môi trường kinh doanh ở nước ta. Mặt khác cần sớm thu hồi đất đang bị bỏ hoang hoặc sử dụng lãng phí bởi nhiều dự án, giải tỏa đất bị treo bởi các qui hoạch không khả thi, để tạo quỹ đất cho các DN có nhu cầu được sử dụng.

Thứ ba, về chính sách tín dụng, tôi tán thành chủ trương thắt chặt tín dụng để kiềm chế lạm phát, nhưng đề nghị Chính phủ xem lại cách thực hiện. Chính phủ và Ngân hàng Nhà nước đều đã khẳng định ngay từ khi đưa ra Nghị quyết 11 là tiếp tục ưu tiên cấp tín dụng cho 3 đối tượng nông nghiệp nông thôn, xuất khẩu và DN nhỏ và vừa. Nhưng thực tế suốt năm 2011 cho thấy các DN nhỏ và vừa vẫn rất khó tiếp cận, trong khi đó có những khoản tín dụng rất lớn vẫn được cấp cho các DN lớn.

Nếu năm 2012 không cải thiện mạnh thì sẽ có thêm nhiều DN phải chết oan. Nếu cải thiện mạnh về tín dụng cho DNNVV thì họ sẽ có cơ hồi phục và đóng góp vào duy trì và tạo việc làm, tạo tăng trưởng cho nền kinh tế.

Thứ tư, về chính sách khuyến khích, hỗ trợ cải thiện công nghệ và đào tạo lao động. Nâng cao trình độ công nghệ và trình độ tay nghề của người lao động là những biện pháp quan trọng hàng đầu giúp DN nâng cao năng suất lao động và cải thiện năng lực cạnh tranh. Chính phủ có những chính sách khuyến khích, hỗ trợ DN cải thiện công nghệ và đào tạo lao động, nhưng phần lớn chưa được thực thi, một phần với lý do thiếu nguồn vốn dành cho việc đó, một phần do những thủ tục rất phức tạp. Bối cảnh tái cấu trúc nền kinh tế vừa đòi hỏi, vừa có thể tạo điều kiện cho nhà nước thực thi chính sách này ngay trong năm 2012 và các năm tiếp theo.

Thứ năm, về chính sách khuyến khích, hỗ trợ DN đầu tư vào nông nghiệp và phát triển nông thôn. Rõ ràng nông nghiệp là một trong những hướng Việt Nam có thể đi tiếp trong thời gian tới, và do vậy rất cần tạo năng lực cạnh tranh cao hơn nữa cho nông nghiệp, nông sản Việt Nam. Nhiều DN cũng đang quan tâm tới đầu tư vào nông nghiệp và phát triển nông thôn. Nhưng do tính chất rủi ro lớn, nhà nước nên khuyến khích, hỗ trợ các DN đầu tư vào nông nghiệp nhiều hơn bằng cách tạo ra khung ưu đãi lớn hơn cho cả ba khâu cung cấp các sản phẩm và dịch vụ đầu vào, tổ chức sản xuất nông nghiệp và thu hoạch, bảo quản, chế biến, tiêu thụ các sản phẩm đầu ra, đặc biệt đối với những DN áp dụng công nghệ hoặc mô hình sản xuất nông nghiệp tiên tiến, hiệu quả cao.

Thứ sáu, về chính sách hỗ trợ DN trong quá trình sáp nhập và mua lại M&A. Năm 2011, M&A đã tăng mạnh ở nước ta, dự báo năm 2012 có thể còn tăng mạnh hơn nữa. Trên thực tế một số DN tư nhân cỡ vừa hoặc tương đối lớn cũng đang lâm vào khó khăn hoặc tự thấy sau 10, 15 năm hình thành và phát triển đã đến lúc phải cơ cấu lại theo cách sáp nhập với đối tác khác để tạo bước phát triển mới cao hơn. Đây có thể là cơ hội cho các DN tự sáp nhập với nhau hoặc tìm đối tác chiến lược ở các nước tiên tiến. Trong cả hai trường hợp, các DN đều mong có thêm nguồn lực bổ sung để tạo thế tốt hơn cho mình và cho DN mới hình thành.

Nếu không được hỗ trợ thì có khả năng một số DN Việt Nam cùng với mảng thị trường mà họ đã trải qua nhiều gian nan để gây dựng thành công sẽ bị rơi vào sự thôn tính và kiểm soát của các công ty nước ngoài. Còn nếu có chính sách hỗ trợ tốt cho nhóm này thì lại có thể giúp hình thành một lớp DN mới, lớn và mạnh hơn, cạnh tranh hơn, làm đầu tầu và nòng cốt cho phát triển một số ngành và thị trường trong tương lai. Rất mong Chính phủ quan tâm tới điều này.

– Xin cảm ơn bà.