Trang chủ » Điểm nóng » Những lát cắt ra tiền

Những lát cắt ra tiền

Tác giả:

Kinh doanh trong lĩnh vực truyền hình ngày nay đã không còn đơn giản như cách đây hơn 10 năm, khi truyền hình mới được xã hội hóa bắt đầu từ hình thức nhận tài trợ hay bán quảng cáo trên sóng. Công nghệ kinh doanh truyền hình hiện nay và tương lai ở Việt Nam ngày càng trở nên đa dạng, phức tạp và tính theo cách nào cũng là những lát cắt ra tiền trong những cuộc hợp tác.

Kinh doanh ngang – dọc

Việt Nam hiện khoảng 86 triệu dân và có đến 67 đài truyền trình từ trung ương đến địa phương với gần 100 kênh truyền hình đang phát sóng qua các loại hình công nghệ khác nhau.

Nhưng thực tế không có quá 10 đài tham gia vào cuộc cạnh tranh quyết liệt trên thị trường truyền hình. Phần lớn các đài còn lại, chủ yếu là truyền hình địa phương (ngoại trừ một số đài địa phương lớn như TP. HCM, Hà Nội, Bình Dương…) “gánh” thêm cả nhiệm vụ sản xuất các chương trình phát thanh nên sống nhờ ngân sách và có thêm nguồn thu qua hình thức kinh doanh truyền hình đơn giản là bán quảng cáo.

Ở những đài lớn, bán quảng cáo nay chỉ còn là một phần trong số các công cụ mà nhà đài có thể khai thác để tăng doanh thu. Do ngân sách hầu như chỉ rót tiền đầu tư hạ tầng nên muốn có nguồn thu và lợi nhuận để nuôi bộ máy, sản xuất các chương trình đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của khán giả, các đài đều chọn phương án liên doanh, liên kết sản xuất các chương trình truyền hình để lợi cả đôi đường. Người ta quen gọi đây là các hình thức “xã hội hóa”.

Kinh doanh trên thị trường truyền hình hơn 10 năm trước bắt đầu bằng hình thức mà dân trong nghề gọi là “bán ngang” (liên kết sản xuất hay “mua” sóng theo giờ, theo chương trình). Sau này có thêm loại “bán dọc” (đài chuyển giao toàn bộ quyền sản xuất chương trình, quyền kinh doanh trên kênh phát sóng cho đối tác và nhận lại một khoản tiền lớn tính theo năm hoặc nhiều năm).

Theo quy định về liên kết sản xuất các chương trình phát thanh-truyền hình do Bộ Thông tin Truyền thông mới ban hành cách đây hơn một năm, dù dưới hình thức liên kết nào thì các đài cũng là nơi chịu trách nhiệm về nội dung của các chương trình phát sóng.

Cả hai hình thức kinh doanh phổ biến nhất nói trên trong lĩnh vực truyền hình đều phát triển mạnh trong những năm qua. “Bán ngang” thì giúp đài chọn ra được các nhà sản xuất tốt. Rất nhiều công ty truyền thông lớn tham gia sân chơi này như BHD, Lasta, Cát Tiên Sa, FPT Media, Đông Tây Promotion… Họ sản xuất các bộ phim truyền hình ăn khách như “Cô gái xấu xí”, “Lập trình trái tim” hay các chương trình trò chơi trên truyền hình như “Bước nhảy hoàn vũ”, “Hát với ngôi sao”…

 


Từ khi có cơ chế “bán ngang”, các đài có thể đặt hàng và lựa chọn các nhà sản xuất chương trình ngày một nhiều. Ví dụ, những năm trước mỗi tuần chỉ có một (hoặc một tập) phim truyền hình phát sóng trên chương trình “Văn nghệ chủ nhật” của Đài Truyền hình Việt Nam (VTV). Nhưng khi được “bán ngang”, ngày nào trên sóng truyền hình (VTV1, VTV3 hoặc nhiều đài địa phương lớn) cũng có từ một đến hai tập phim truyền hình phát sóng. Ở đây chưa bàn đến chất lượng phim mà chỉ có thể nói rằng, qua cách này đôi bên cùng có lợi. Đài có chương trình phát sóng đáp ứng nhu cầu đa dạng của khán giả. Đối tác bán được phim với giá cao hơn chi phí sản xuất nhưng được trả bằng một số lượng các spot (thời lượng) quảng cáo (mỗi spot thường tính là 30 giây). Họ bán các spot cho doanh nghiệp để biến thành tiền.

Giả dụ như sau: VTV đồng ý mua của BHD một tập phim “Cô gái xấu xí” với giá 300 triệu đồng, trả bằng 30 spot quảng cáo trong thời gian từ 21 giờ đến 22 giờ hàng ngày trên sóng VTV3. Chi phí sản xuất 1 tập phim này BHD phải bỏ ra 100 triệu đồng. Nếu BHD bán hết được 30 spot quảng cáo đó mỗi ngày, họ lời được 200 triệu. Nếu phim ăn khách, quảng cáo nhiều thì quy định liên kết ở đây cho phép VTV thu tiền từ spot quảng cáo thứ 31 trở đi và BHD không được thu nữa. Nhưng đối tác vẫn cố gắng sản xuất các tập phim có chất lượng để bộ phim được “sống” trên sóng dài hơn, lợi nhuận của họ cũng tăng theo. Và ngược lại, nếu phim kém, không bán được quảng cáo thì họ sẽ lỗ và phải dừng sản xuất.

“Bán dọc” chỉ dành cho các nhà đầu tư có thực lực mạnh. Nó đang trở thành xu hướng mở rộng trong vài năm gần đây của nhiều ngân hàng, doanh nghiệp lớn đang “ăn nên làm ra” trong các lĩnh vực kinh doanh bất động sản, sản xuất công nghiệp hay khai khoáng. “Bán dọc” hay nói khác đi là đài truyền hình cho phép đối tác đầu tư sở hữu riêng một kênh truyền hình trên hạ tầng sẵn có của đài. Hình thức này xuất hiện rất nhiều trên các chương trình truyền hình cáp của VTV, HTV, SCTV (liên doanh giữa VTV và SaigonTourist) với các kênh O2 TV, InfoTV, TV Shopping…; Đài truyền hình kỹ thuật số (VTC) với các kênh Today TV, VBC, VITTV…

Hình thức “bán dọc” trong giới kinh doanh truyền hình gọi là cách thức chọn ra nhà kinh doanh kênh sóng tốt nhất. Song, nó đòi hỏi tiềm lực tài chính rất mạnh của chủ đầu tư vì dù có sản xuất ít thời lượng (một đến vài giờ/ngày) trên kênh sóng, các chủ đầu tư cũng phải “rót” vào đây cỡ 30-40 tỉ/năm từ máy móc, trang thiết bị đến chi phí bộ máy và các chi phí sản xuất chương trình khác. Trong đó có vài tỉ đến vài chục tỉ mỗi năm là tiền nhà đầu tư phải trả cho đài để có quyền phát sóng. Chưa kể đến thời gian chuẩn bị bộ máy từ một đến vài năm mới có thể “ra” kênh.

Theo một chuyên gia trong lĩnh vực kinh doanh các kênh truyền hình, hầu hết các nhà đầu tư hiện nay chưa có lãi và nhiều kênh lỗ nặng vì “cuộc chơi” truyền hình rất tốn kém. Theo nguyên tắc liên kết đầu tư sản xuất thường được áp dụng, ví dụ nhà đầu tư cam kết trả cho các đài lớn cỡ 10 tỉ đồng/năm để toàn quyền sản xuất và kinh doanh trên kênh sóng thì họ cũng được bán quảng cáo đến 10 tỉ đồng. Nếu vượt mức này thì doanh thu chia đôi giữa đài và đối tác. Song trên thực tế, không có mấy nhà đầu tư có thể “chạm” đến ngưỡng doanh thu quảng cáo này.

Lời hay lỗ?

Trong các cuộc liên kết sản xuất- kinh doanh, nơi được lãi đầu tiên là các đài truyền hình. Họ được lợi khi vừa có các chương trình phát sóng đáp ứng nhu cầu khán giả, từ các chương trình miễn phí hay trên truyền hình trả tiền trong khi nguồn nhân lực có hạn, lại vừa có doanh thu thực tế. Ví dụ như, doanh thu của một đài truyền hình lớn cỡ VTV hay HTV (Đài Truyền hình TP.HCM) những năm gần đây xấp xỉ 2.000 tỉ đồng/năm thì hơn một phần ba trong số đó là từ việc liên kết, đổi quảng cáo lấy chương trình trên sóng mà dân truyền hình gọi là “tiền khô”.

Những phần còn lại thu từ quảng cáo, từ cam kết đầu tư vào kênh, bán đầu thu phát sóng hay phát triển thuê bao… là “tiền tươi” (tiền thực thu). Như vậy, hình thức kinh doanh nào, đài truyền hình cũng “khỏe” và càng nhiều liên kết, đầu tư thì các đài càng “sống” tốt. Người tiêu dùng cũng có lợi vì có nhiều lựa chọn hơn. Song, về phía các nhà đầu tư (chủ yếu vào các kênh truyền hình cáp hay kỹ thuật số) hầu hết đang lỗ. Lý do như đã nói ở trên là do chi phí đầu tư vào sản xuất và bộ máy hàng năm rất lớn, lên đến vài chục tỉ đồng, thời gian đầu tư đòi hỏi phải kéo dài. Nhưng do phát triển “nóng” và mức độ cạnh tranh quá lớn trong khi chất lượng các chương trình sản xuất còn hạn chế nên các nguồn thu (chủ yếu là quảng cáo) hiện tại hầu hết đều đổ vào các kênh quảng bá trên sóng VTV hay HTV.

Không thể nói rằng các nhà đầu tư lớn như Techcombank (trước đây đầu tư vào kênh O2 TV sau đó chuyển nhượng cho Ngân hàng Bắc Á), Ocean Bank (đầu tư vào InfoTV và Shopping TV), tập đoàn Tân Tạo (đầu tư vào VBC), VTV và Canal Plus (đầu tư vào K+)… không có kinh nghiệm hay thiếu chiến lược kinh doanh tốt nên làm ăn chưa có lãi.

Chẳng hạn như hồi tháng 8-2007, khi Techcombank muốn mở một kênh truyền hình chuyên biệt về sức khỏe, đội ngũ chuẩn bị đã nhắm đến một thị trường dược – vốn mỗi năm “hút” đến 120.000 tỉ đồng của doanh nghiệp và dân cư (với tốc độ tăng trưởng 20%/năm). Chỉ cần vài phần trăm trong “miếng bánh” khổng lồ này là có thể tồn tại và có lãi.

Nhưng chỉ hơn một năm sau khi phát sóng, Techcombank đã rút lui, chuyển nhượng lại O2 TV cho Ngân hàng Bắc Á. Đây có thể coi là vụ chuyển nhượng đầu tiên trên thị trường kinh doanh truyền hình và kênh O2 TV là một trong số ít các kênh có dòng tiền quay về, thay vì chủ đầu tư vẫn phải “nuôi” toàn bộ như nhiều kênh khác.“Đầu tư vào truyền hình là xu hướng mở rộng kinh doanh của nhiều tập đoàn, doanh nghiệp lớn trên thế giới và ở Việt Nam. Nhưng ngành nghề đặc thù này đòi hỏi thời gian đầu tư kéo dài, lợi nhuận không cao nếu đem so với nhiều ngành nghề kinh doanh khác nên chúng tôi phải cân nhắc rất nhiều khi tiếp tục hay rút lui”, một chủ đầu tư nói.

Cũng có thể thị trường kinh doanh các sản phẩm truyền hình ở Việt Nam đang ở giai đoạn manh nha, mỗi người một cách, nhân lực lại ít và nhiều nơi vừa làm vừa học nên dù có phát triển về số lượng thì các cuộc cạnh tranh về chất lượng và hình thức kinh doanh còn kéo dài, thậm chí còn gây nhiều tranh cãi.

Nhưng chắc chắn rằng, lĩnh vực truyền hình vẫn còn “đất” phát triển trong tương lai và ngày càng có nhiều doanh nghiệp tìm đến.

Có hiệp hội, liệu có bớt rắc rối ?

Sau nhiều vụ việc rắc rối liên quan đến việc chia sẻ bản quyền truyền hình, người ta nghĩ đến việc phải có một hiệp hội truyền hình trả tiền và xem như đây là đầu mối tương lai để điều tiết việc chia sẻ bản quyền, thay mặt các đơn vị kinh doanh truyền hình đi đàm phán và sau đó về phân phối lại. Tương tự như các hiệp hội khác, hiệp hội này hoạt động độc lập và phi lợi nhuận hoặc trực thuộc một cơ quan nhà nước.

Việc này có phải là một lối thoát tốt cho các cuộc tranh chấp trong lĩnh vực bản quyền truyền hình nói riêng không? Theo một chuyên gia của Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI), cũng không phải là không có tiền lệ “quy về một mối” để đàm phán hợp đồng, chia sẻ quyền kinh doanh và quyền lợi như Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu thủy sản Việt Nam (VASEP) đã thực hiện với các thành viên của mình. Họ thay mặt các hội viên đi đàm phán, ký kết các gói hợp đồng lớn và chia sẻ quyền kinh doanh với các thành viên theo những cam kết rõ ràng.

“Nhưng đó là trong trường hợp các thành viên VASEP thống nhất ý chí và phải thống nhất ý chí với các điều kiện rõ ràng thì mới cử một đầu mối đi đàm phán được. Trong trường hợp quyền lợi và ý chí còn mâu thuẫn thì việc thu về một mối và phân chia lại sẽ còn dễ tạo những rắc rối sau này hơn nữa”, vị này nói.

Còn theo ông Phạm Chí Cường, Chủ tịch Hiệp hội Thép Việt Nam, muốn hiệp hội hoạt động thực sự hiệu quả, là nơi dung hòa lợi ích giữa các doanh nghiệp với nhau, giữa doanh nghiệp với xã hội và là nơi giải quyết được các rắc rối có thể xảy ra, thì phải bắt đầu từ điều lệ của hiệp hội chứ không phải mong muốn chủ quan của các cơ quan nhà nước hay mệnh lệnh hành chính.

“Điều lệ phải có những quy định gì liên quan đến việc xử lý tranh chấp quyền lợi của các thành viên”, ông Cường nói và phân tích thêm rằng: nếu Luật Doanh nghiệp không quy định phải chia sẻ cái này, thống nhất cái kia thì hiệp hội không có quyền xâm phạm vào quyền tự do kinh doanh của doanh nghiệp vì hiệp hội truyền hình trả tiền hay hiệp hội nào khác không phải là cấp trên của doanh nghiệp. “Hiệp hội chỉ có quyền hiệp thương và làm trung gian hòa giải chứ không được vi phạm quyền tự do kinh doanh của doanh nghiệp và can thiệp sâu vào các hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Và đặc biệt, người đứng đầu hiệp hội không nên là người đứng đầu một đài truyền hình lớn để đảm bảo tính công bằng và lợi ích của các bên.

Hiệp hội truyền hình trả tiền sẽ ra đời và hy vọng là nó sẽ đạt được mục tiêu đầu tiên là đoàn kết các doanh nghiệp kinh doanh truyền hình trả tiền, cạnh tranh vì sự phát triển của doanh nghiệp chứ không phải cạnh tranh bằng mọi giá như những gì đã diễn ra.